Hội chứng gây suy giảm của hệ miễn dịch mắc phải (AIDS) là mộtcăn bệnh mãn tính, có khả năng đe dọa đến tính mạng do virus gây suy giảm hệmiễn dịch ở người (HIV) gây ra. Bằng cách phá hủy hệ thống miễn dịch của bệnhnhân, HIV gây cản trở cơ thể chống lại các virus gây bệnh khác. Đến hiện tạivẫn không có cách chữa khỏi bệnh HIV / AIDS, nhưng đã có những loại thuốc cóthể làm chậm đáng kể quá trình tiến triển của bệnh.

1. Bệnh AIDS là gì?

Bệnh AIDS làcăn bệnh được tiến triển từ căn bệnh HIV. Đây là giai đoạn cuối cùngcủa căn bệnh HIV. Nhưng không phải là tất cả những người bị nhiễm bệnh HIV đềusẽ bị bệnh AIDS. Bệnh HIV tiêu diệt các tế bào CD4. Một người trưởng thành khỏemạnh thì thường có số lượng CD4 từ 500 - 1.500 tế bào trong 1 mm3. Những ngườinhiễm căn bệnh HIV thường có số lượng CD4 giảm hẳn, mức CD4 xuống dưới 200 tếbào trong 1 mm3 sẽ được chẩn đoán là mắc bệnh AIDS.

Ngoài ra những người bệnh cũng bị chẩn đoán là dính bệnh AIDSnếu họ bị nhiễm bệnh HIV và bị “nhiễm trùng cơ hội” hoặc ung thư, mà nó là hiếmgặp ở những người không có nhiễm bệnh HIV. Nhiễm trùng cơ hội chẳng hạn như là viêm phổi đây chính là dấu hiệu bệnh HIV đã chuyển sang giai đoạn bệnh AIDS.

Tế bào CDA giảm mạnh

Nếu như không được điều trị kịp thời bệnh HIV có thể tiến triểnthành căn bệnh AIDS chỉ trong vòng 10 năm. Hiện tại vẫn không có cách chữa bệnhAIDS, tuổi thọ sau khi chẩn đoán là trong khoảng 3 năm. Thời gian sống của bệnhnhân AIDS có thể ngắn hơn nếu người bệnh nhiễm các bệnh cơ hội nghiêm trọng.Tuy nhiên việc điều trị bệnh bằng các loại thuốc kháng vi-rút có thể ngăn ngừaAIDS tiến triển.

Nếu như bệnh HIV đã tiến triển thành bệnh AIDS, điều đó cũng cónghĩa là hệ thống miễn dịch cũng sẽ bị tổn hại một cách nghiêm trọng. Nó đã cựckỳ suy yếu đến nỗi không thể chống lại hầu hết các bệnh và nhiễm trùng. Điều đócũng làm cho người bệnh dễ dàng bị một loạt các bệnh khác bao gồm:

·        Bệnh viêm phổi

·        Bệnh lao

·        Bệnh tưa miệng (nhiễm nấm trong miệng hoặc cổ họng)

·        Bệnh cytomegalovirus (CMV), một loại virus herpes

·        Bệnh viêm màng não do cryptococcus (nhiễm nấm trong não)

·        Bệnh Toxoplasmosis (nhiễm trùng não do ký sinh trùng)

·        Bệnh Cryptosporidiosis (một bệnh nhiễm trùng do ký sinh trùng đườngruột)

·        Bệnh ung thư: Bao gồm ung thư Kaposi (KS) và ung thư hạch.

Tuổi thọ bị rút ngắn liên quan đến bệnh AIDS không được điều trịlà kết quả của các bệnh và biến chứng phát sinh do hệ thống miễn dịch bị suyyếu.

2. Bệnh HIV và bệnh AIDS có mối liên hệ gì?

Virus HIV

Bệnh HIV tiến triển qua 3 giai đoạn:

Giai đoạn 1: Đây là giai đoạn cấp tính, diễn ra sau vàituần đầu sau khi bị nhiễm bệnh.

Giai đoạn 2: Đây là độ trễ lâm sàng hoặc giai đoạnmãn tính.

Giai đoạn 3: Bệnh HIV trở thành bệnh AIDS.

Khi HIV làm giảm số lượng tế bào CD4 xuống một mức độ nhất địnhthì sẽ khiến hệ thống miễn dịch bị suy yếu. Số lượng tế bào CD4 của người lớnthông thường là 500 - 1.500 tế bào/mm3. Nếu như một người có số lượng CD4 mà dưới200 tế bào/mm3 được coi là bị AIDS.

Thời gian bệnh HIV tiến triển biến chứng sang giai đoạn mãn tínhthay đổi đáng kể trên mỗi người. Nếu như không điều trị, điều này có thể kéodài đến một thập kỷ trước khi tiến tới bệnh AIDS. Với việc điều trị nó có thểkéo dài vô tận.

Không hề có cách nào chữa trị HIV, nhưng chúng ta đã có cách đểkiểm soát bệnh. Những người mà bị nhiễm bệnh HIV thường có tuổi thọ gần như là bìnhthường với các điều trị sớm bằng liệu pháp kháng vi-rút. Thêm vào đó về mặt kỹthuật hiện tại vẫn chưa có thuốc chữa bệnh AIDS. Tuy nhiên nếu như việc điềutrị có thể làm gia tăng số lượng CD4 đến mức được coi là không còn bị bệnh AIDS(>=200 CD4 tế bào/mm3). Ngoài ra việc điều trị cũng có thể giúp kiểm soátnhiễm trùng cơ hội.

3. Triệu chứng của bệnh AIDS

Người bị nhiễm bệnh HIV có thể làm tăng cao nguy cơ mắc các bệnhnhiễm trùng. Những người nhiễm bệnh HIV có thể tiến triển thành bệnh AIDS nếunhư bệnh HIV được chẩn đoán muộn hoặc không được chẩn đoán, hoặc nếu như ngườibị nhiễm bệnh HIV nhưng không dùng liệu pháp kháng retrovirus. Người bệnh cũngcó thể tiến triển thành bệnh AIDS nếu như trong cơ thể tồn tại một hoặc nhiềuloại virus HIV kháng lại (không có phản ứng) với việc điều trị bằng các loại thuốc kháng vi-rút.

Nếu như không được điều trị đúng cách, những người nếu như bịnhiễm bệnh HIV có thể chuyển sang giai đoạn bệnh AIDS sớm hơn. Theo đó, hệthống miễn dịch sẽ bị tổn hại nghiêm trọng và khó chống lại căn bệnh nhiễmtrùng và bệnh tật hơn. Cùng với việc sử dụng các liệu pháp kháng vi-rút, mộtngười có thể duy trì nhiễm HIV mạn tính mà không bị AIDS trong nhiều thập kỷ.

Các triệu chứng của AIDS có thể bao gồm:

·        Bệnh sốt tái phát.

·        Các hạch bạch huyết sưng mãn tính, đặc biệt là ở nách, cổ vàháng.

·        Hay mệt mỏi mãn tính.

·        Đổ mồ hôi về đêm.

·        Các vết nám sẫm màu dưới da hoặc bên trong miệng, mũi hoặc mí mắt.

·        Lở loét, đốm hoặc tổn thương miệng và lưỡi, bộ phận sinh dục hoặchậu môn.

·        Các vết sưng, tổn thương hoặc phát ban ở da.

·        Hay tiêu chảy tái phát hoặc mãn tính.

·        Tụt giảm cân nhanh.

·        Các vấn đề về thần kinh như khó tập trung, mất trí nhớ và nhầm lẫn.

·        Luôn cảm thấy lo lắng và trầm cảm.

Điều trị bằng các loại thuốc kháng vi-rút giúp cho kiểm soátvi-rút và ngăn ngừa sự tiến triển từ bệnh HIV thành bệnh AIDS. Các bệnh nhiễmtrùng và biến chứng khác của căn bệnh AIDS cũng có thể được điều trị. Việc điềutrị bệnh phải được điều chỉnh theo nhu cầu cá nhân của người bệnh.

4. Nguyên nhân gây ra bệnh AIDS

Đối với những người khỏe mạnh có số lượng tế bào CD4 từ 500 -1.500 tế bào/mm3. Nếu không kịp điều trị, vi rút HIV sẽ tiếp tục nhân lên vàphá hủy các tế bào CD4. Nếu một người có số lượng tế bào CD4 giảm xuống dưới200 tế bào/mm3, họ sẽ được chẩn đoán là bị dính bệnh AIDS.

Ngoài ra, nếu như người nhiễm bệnh HIV bị các bệnh nhiễm trùngcơ hội liên quan đến bệnh HIV, họ vẫn có thể được chẩn đoán là bị bệnh AIDS,ngay cả khi số lượng tế bào CD4 của họ > 200 tế bào/mm3.

5. Biến chứng khi căn bệnhchuyển sang giai đoạn AIDS

Nhiễm HIV/AIDS sẽ làm suy yếu đi hệ thống miễn dịch và làm tăng khả năng mắc nhiều bệnh nhiễm trùng và một số loại bệnh ung thư.

5.1 Nhiễm trùng phổ biến liênquan đến bệnh HIV / AIDS

Bệnh lao biến chứng từ HIV

·        Bệnh lao (TB): Ở các quốc gia kém sự phát triển và đang trong tình trạng phát triển, các bệnhlao là các bệnh nhiễm trùng cơ hội phổ biến nhất liên quan đến bệnh HIV. Đó lànguyên nhân hàng đầu gây ra tử vong ở những người bị bệnh AIDS.

·        Các vi rút Cytomegalovirus: Virút herpes phổ biến này sẽ thường được lây truyền qua các chất dịch cơ thể nhưlà nước bọt, máu, nước tiểu, tinh dịch và sữa mẹ. Nếu người có một hệ thống miễndịch khỏe mạnh thì có thể làm bất hoạt virus (dạng không hoạt động). Hệ thốngmiễn dịch của người bệnh bị suy yếu bởi căn bệnh AIDS, các virus sẽ xuất hiệntrở lại và gây tổn thương cho mắt, đường tiêu hóa, phổi hoặc là các cơ quankhác.

·        Bệnh nấm Candida: Bệnhnấm Candida là một bệnh nhiễmtrùng phổ biến liên quan đến căn bệnh HIV. Bệnh sẽ gây viêm với một lớp phủ dàycó màu trắng trên màng nhầy của miệng, lưỡi, thực quản hoặc là âm đạo.

·        Bệnh viêm màng não do Cryptococcus: Bệnh viêm màng não là tình trạng viêm màngvà dịch lỏng bao xung quanh não và tủy sống (màng não). Bệnh viêm màng não do Cryptococcuslà một căn bệnh nhiễm trùng hệ thần kinh trung ương phổ biến liên quan đến cănbệnh HIV, gây ra bởi một loại nấm được tìm thấy trong đất.

·        Bệnh nhiễm độc tố: Bệnhnhiễm trùng này có khả năng gây tử vong cao, đây là do vi rút Toxoplasmagondii, đây là một loại ký sinh trùng lây lan chủ yếu ở mèo. Những con mèo bịnhiễm bệnh truyền ký sinh trùng qua phân, sau đó có thể lây sang các sinh vậtkhác trong đó có con người. Bệnh động kinh xảy ra là khi ký sinh trùng đã lan đếnnão.

·        Bệnh Cryptosporidiosis: Đâylà bệnh nhiễm trùng này là do ký sinh trùng đường ruột và thường xuất hiện trêncác loại động vật. Người bệnh thường bị nhiễm thông qua việc ăn uống thực phẩmhoặc nguồn nước bị ô nhiễm. Ký sinh trùng sẽ phát triển trong đường ruột và đườngống mật, dẫn đến bệnh tiêu chảy nặng, mãn tính ở những người bị bệnh AIDS.

5.2 Những căn bệnh ung thưnày thường gặp ở những bệnh nhân nhiễm HIV / AIDS

·        Bệnh ung thư Kaposi: Bệnhlà do khối u được hình thành ở trong thành mạch máu, bệnh ung thư này rất hiếmgặp ở những người không bị nhiễm bệnh HIV, nhưng phổ biến là ở những ngườidương tính với bệnh HIV. Bệnh thường được xuất hiện dưới dạng tổn thương màu hồnghoặc đỏ hoặc màu tím trên da và miệng. Ở những người mà có làn da sẫm màu hơn, thìcác tổn thương sẽ có thể có màu nâu sẫm hoặc là màu đen. Bệnh ung thư Kaposicũng có thể ảnh hưởng đến các cơ quan nội tạng khác, bao gồm cả bệnh đường tiêuhóa và bệnh phổi.

·        Bệnh ung thư hạch: Bệnhung thư này bắt đầu trong các tế bào bạch cầu. Dấu hiệu bệnh sớm phổ biến nhấtlà sưng hạch và không gây đau ở cổ, nách hoặc háng.

5.3 Các biến chứng khác của bệnh HIV/AIDS

·        Bệnh hội chứng suy mòn: Cácphương pháp điều trị tích cực đã làm giảm mạnh số lượng các trường hợp mắc bệnhhội chứng suy mòn, nhưng nó vẫn ảnh hưởng nghiêm trọng đến nhiều người bị bệnhAIDS. Nó được định nghĩa là giảm ít nhất 10% trọng lượng cơ thể bệnh thường đikèm với tiêu chảy, các bệnh suy nhược mãn tính và sốt.

·        Bệnh biến chứng thần kinh: Mặcdù căn bệnh AIDS dường như không hề lây nhiễm đến các tế bào thần kinh, nhưngnó có thể gây ra các triệu chứng thần kinh như là nhầm lẫn,hay đãng trí, bệnh trầmcảm, lo lắng và khó đi lại. Một trong những biến chứng thần kinh phổ biến nhấtlà căn bệnh mất trí nhớ do bệnh AIDS, dẫn đến các thay đổi hành vi và giảm chứcnăng tâm thần.

·        Bệnh thận: Bệnhthận mà liên quan đến bệnh HIV (HIVAN) là tình trạng viêm ở các bộ lọc nhỏtrong thận, các bộ phận có vai trò loại bỏ các chất lỏng dư thừa và chất thải từmáu chuyển thể thành nước tiểu. Bệnh này thường ảnh hưởng đến những người dađen hoặc là người Tây Ban Nha. Người nhiễm bệnh HIV bị biến chứng này nên đượcbắt đầu điều trị bằng các loại thuốc kháng vi-rút.

Bệnh lao phổi là nguyên nhân hàng đầu gây ra tử vong ở nhữngngười bị bệnh AIDS

6. Những phương pháp làm chậmtiến triển của bệnh HIV/AIDS

Thuốc kháng sinh HIV/AIDS

Điều trị bệnh HIV/AIDS nên bắt đầu càng sớm càng tốt sau khiđược các bác sĩ chẩn đoán nhiễm bệnh HIV, bất kể là virus trong ở cơ thể đang ởmức thấp hay là mức cao. Các phương pháp điều trị chính cho bệnh HIV là điềutrị bằng các loại thuốc kháng vi-rút, một sự kết hợp của các loại thuốc khángvirus sẽ được sử dụng hàng ngày nhằm ngăn chặn vi-rút sinh sản. Điều này sẽ giúpbảo vệ các tế bào CD4, giữ cho bộ máy hệ thống miễn dịch đủ mạnh khỏe để chốnglại bệnh tật.

Điều trị bệnh HIV/AIDS bằng thuốc kháng vi-rút giúp ngăn ngừa bệnhHIV tiến triển thành bệnh AIDS. Nó cũng giúp giảm nguy cơ truyền bệnh HIV cho nhữngngười xung quanh. Khi điều trị đã có hiệu quả, tải lượng vi-rút sẽ khó có thểphát hiện được. Tuy người bệnh vẫn bị nhiễm bệnh HIV, nhưng vi rút sẽ không thểnhìn thấy trong các kết quả xét nghiệm. Tuy nhiên là virus vẫn còn trong cơ thểbệnh nhân. Nếu như ngừng dừng các liệu pháp kháng vi rút, tải lượng vi rút sẽtăng trở lại và bệnh HIV có thể lại bắt đầu tấn công làm giảm các tế bào CD4trong cơ thể bệnh nhân.

Những cách khác có thể giúp cải thiện sức khỏe của những ngườinhiễm bệnh HIV bao gồm như:

·        Tiếp các nhiên liệu cho cơ thể bằng chế độ ăn uống cân bằng.

·        Tập thể dục đều đặn hàng ngày.

·        Chăm chỉ nghỉ ngơi.

·        Không dùng thuốc lá và các loại chất kích thích.

·        Báo cáo các bác sĩ ngay khi có bất kỳ triệu chứng bệnh bất thường.

·        Luôn duy trì tinh thần ổn định.

·        Luôn quan hệ tình dục an toàn: chia sẻ với người bạn tình của bạnvề tình trạng thực tế bệnh. Nên đi xét nghiệm các căn bệnh có thể lây truyền qua đường tình dục khác(STIs). Luôn sử dụng bao cao su mỗi khi phát sinh quan hệ tình dục qua đường âmđạo thậm chí là hậu môn.

·        Điều trị bệnh dự phòng bằng cách PrEP và PEP: Với những người màkhông nhiễm bệnh HIV, điều trị dự phòng trước phơi nhiễm (PrEP) và điều trị dựphòng sau phơi nhiễm (PEP) có thể làm giảm tối đa nguy cơ lây truyền. PrEP thườngđược khuyên dùng cho những người không nhiễm bệnh HIV có mối quan hệ với ngườinhiễm bệnh HIV, nhưng nó cũng có thể được sử dụng trong các tình huống khác.

·        Tâm sự bệnh với người thân: Khi lần đầu tiên nói với mọi người vềtình trạng bệnh chính mình, người bệnh thường mong muốn người nghe có thể duytrì sự tin tưởng với họ. Đồng thời cũng mong muốn nhận được sự đồng cảm, chămsóc sức khỏe và tâm lý.

·        Nhận sự hỗ trợ: Họ có thể tham gia nhóm hỗ trợ bệnh HIV, trực tiếphoặc trực tuyến, vì đó là nơi họ có thể gặp gỡ những người khác cũng đang phảiđối mặt với những mối quan tâm tương tự. Từ đó có thể hỗ trợ và động viên nhautrong các hoạt động đời sống và các vấn đề bệnh tật.

Cách đeo bao cao su